Nơi tiếp biến hai nền văn hóa Chăm - Việt

Theo chân ông Đặng Dùng, một cư dân sống lâu năm tại địa phương, được mệnh danh là “người chép sử Nam Ô”, chúng tôi có dịp tìm hiểu về những di tích văn hóa, lịch sử còn lưu giữ tại vùng đất này. Đó là các giếng nước Chăm, miếu Âm Linh, đền thờ Huyền Trân Công chúa, Lăng Ông Nam Ô. Mỗi di tích là câu chuyện kể về đất và người Nam Ô.

Ông Dùng cho biết, không rõ làng Nam Ô có từ khi nào, nhưng có thể khẳng định chủ nhân xưa của nó là những người Chăm sống bằng nghề đi biển. Cách đây hơn 7 thế kỷ, vùng đất này vẫn thuộc châu Ô của Vương quốc Chămpa. Minh chứng rõ nhất tại đây là những giếng nước theo kiến trúc thành vuông của người Chăm và đến nay người dân vẫn dùng nước ở giếng này trong sinh hoạt.
Dulichgo
Cách giếng nước này vẫn còn dấu tích tháp Chăm Xuân Dương như kết luận của các nhà khảo cổ trong đợt đào khai quật thám sát vào năm 2015 do Trung tâm Quản lý di sản văn hóa thành phố Đà Nẵng và Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành, phát hiện được móng tháp và nhiều gạch Chăm.

Khi đó, tiến sĩ Lê Đình Phụng, Trưởng phòng Lịch sử khảo cổ (Viện Khảo cổ học Việt Nam) cho rằng, trong hệ thống tháp Chăm dọc miền Trung được xây dựng ven biển thì vị trí xây dựng của Xuân Dương rất đặc biệt. Bởi đây là tháp được người Chăm xây dựng gần biển nhất, đồng thời trấn giữ và nhìn ra cửa Hàn. Ngoài chức năng là đền thờ, tháp Chăm được xem như ngọn hải đăng để định hướng đi biển của người Chăm, nên nó được xây dựng với quy mô khá to lớn.
Dulichgo

Sau này, cuộc di dân về phía Nam đã đưa bộ phận cư dân Đại Việt đến sinh sống tại làng này và hành nghề đi biển với tập tục thờ Cá Ông. Cha ông của làng truyền lại, Lăng Ông Nam Ô được xây dựng từ thời Vua Gia Long yên định cơ đồ (1802), ngay trên nền đền thờ Hải thần của người Chăm.

Dulichgo
Giá trị đặc biệt của Lăng Ông Nam Ô là còn lưu lại nhiều dấu tích từ xa xưa phản ánh tín ngưỡng của ngư dân làng biển này. Trong đó phải kể đến đòn tay ở chánh điện có hàng chữ lưu ký ghi Tự Đức nguyên niên, nơi hậu tẩm còn thờ một bài vị cổ ghi danh hiệu “Nam Hải cư tộc ngọc lân chi thần”, biển sắc “Long ngự chính trung” (tạm dịch Vua biển ở đây) trước tiền đình (khoảng năm 1934) và bức hoành Trạch Tuyết Linh (loài linh thiêng nhất trên vùng biển) vào khoảng năm 1851.

Bên cạnh giá trị văn hóa, làng Nam Ô còn có Dinh Cô Hồn còn được gọi là Miếu Âm Linh minh chứng dấu ấn lịch sử của những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Ngôn truyền qua các thế hệ bô lão thì trong các trận chiến chống quân Pháp tại cửa biển Đà Nẵng vào các năm 1858, 1859, 1862, quân lính triều đình của hai đồn Nam Ô và Trấn biển Cu Đê cùng dân binh địa phương tử trận rất nhiều, nên triều đình vua Tự Đức sau đó đã sắc dụ cho các dân xã lập âm linh để tưởng nhớ tử sĩ trận vong.
< Lễ hội cầu ngư ở Nam Ô.
Dulichgo
Miếu Âm Linh của làng theo đó được tôn tạo. Tại Miếu Âm Linh có khá nhiều những dòng chữ đầy bi hùng như: Sa trường điếu cổ (Thương xót người xưa chết trên sa trường), Thiên thu hiển hách, Giai di tứ hải anh hùng, Trung quân hề ái quốc... được ghi từ thời Tự Đức và Thành Thái.
Nhiều năm nay, ông Đặng Dùng liên tục đi khảo cứu, sưu tầm, viết lại thật nhiều những câu chuyện dân gian, những di tích để mong lưu giữ tài sản quý giá bao đời của cha ông để lại. Bởi theo ông, Nam Ô là vùng đất còn lưu giữ những giá trị văn hóa, minh chứng cho sự tiếp biến giữa hai nền văn hóa Chăm - Việt.

Dulichgo
Trao đổi thêm, ông Trương Công Hiếu, Trưởng phòng Văn hóa-Thông tin quận Liên Chiểu cho biết, vì nằm trong vùng giải tỏa nên chủ đầu tư ban đầu có ý định di dời quần thể này về khu đất cuối đường Nguyễn Tất Thành, nhưng người dân muốn giữ nguyên hiện trạng. Do đó, sau nhiều lần họp bàn, lãnh đạo quận và chủ đầu tư dự án đồng ý kiến nghị của người dân. “Còn giữ gìn và phát huy di tích cũng như thực hành tín ngưỡng của người dân trong thời gian tới, chúng tôi cũng đang chờ bố trí đền bù rồi mới tiến hành trùng tu và tìm ra phương án tốt nhất”, ông Hiếu nói.
Theo Hà Thu (Báo Đà Nẵng)
Du lịch, GO!
Mặn mòi nước mắm Nam Ô
Gỏi cá Nam Ô - Đà Nẵng
Khám phá rạn Nam Ô hoang sơ
Tham quan làng chài Nam Ô ở Đà Nẵng

Theo chân ông Đặng Dùng, một cư dân sống lâu năm tại địa phương, được mệnh danh là “người chép sử Nam Ô”, chúng tôi có dịp tìm hiểu về những di tích văn hóa, lịch sử còn lưu giữ tại vùng đất này. Đó là các giếng nước Chăm, miếu Âm Linh, đền thờ Huyền Trân Công chúa, Lăng Ông Nam Ô. Mỗi di tích là câu chuyện kể về đất và người Nam Ô.

Ông Dùng cho biết, không rõ làng Nam Ô có từ khi nào, nhưng có thể khẳng định chủ nhân xưa của nó là những người Chăm sống bằng nghề đi biển. Cách đây hơn 7 thế kỷ, vùng đất này vẫn thuộc châu Ô của Vương quốc Chămpa. Minh chứng rõ nhất tại đây là những giếng nước theo kiến trúc thành vuông của người Chăm và đến nay người dân vẫn dùng nước ở giếng này trong sinh hoạt.
Dulichgo
Cách giếng nước này vẫn còn dấu tích tháp Chăm Xuân Dương như kết luận của các nhà khảo cổ trong đợt đào khai quật thám sát vào năm 2015 do Trung tâm Quản lý di sản văn hóa thành phố Đà Nẵng và Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành, phát hiện được móng tháp và nhiều gạch Chăm.

Khi đó, tiến sĩ Lê Đình Phụng, Trưởng phòng Lịch sử khảo cổ (Viện Khảo cổ học Việt Nam) cho rằng, trong hệ thống tháp Chăm dọc miền Trung được xây dựng ven biển thì vị trí xây dựng của Xuân Dương rất đặc biệt. Bởi đây là tháp được người Chăm xây dựng gần biển nhất, đồng thời trấn giữ và nhìn ra cửa Hàn. Ngoài chức năng là đền thờ, tháp Chăm được xem như ngọn hải đăng để định hướng đi biển của người Chăm, nên nó được xây dựng với quy mô khá to lớn.
Dulichgo

Sau này, cuộc di dân về phía Nam đã đưa bộ phận cư dân Đại Việt đến sinh sống tại làng này và hành nghề đi biển với tập tục thờ Cá Ông. Cha ông của làng truyền lại, Lăng Ông Nam Ô được xây dựng từ thời Vua Gia Long yên định cơ đồ (1802), ngay trên nền đền thờ Hải thần của người Chăm.

Dulichgo
Giá trị đặc biệt của Lăng Ông Nam Ô là còn lưu lại nhiều dấu tích từ xa xưa phản ánh tín ngưỡng của ngư dân làng biển này. Trong đó phải kể đến đòn tay ở chánh điện có hàng chữ lưu ký ghi Tự Đức nguyên niên, nơi hậu tẩm còn thờ một bài vị cổ ghi danh hiệu “Nam Hải cư tộc ngọc lân chi thần”, biển sắc “Long ngự chính trung” (tạm dịch Vua biển ở đây) trước tiền đình (khoảng năm 1934) và bức hoành Trạch Tuyết Linh (loài linh thiêng nhất trên vùng biển) vào khoảng năm 1851.

Bên cạnh giá trị văn hóa, làng Nam Ô còn có Dinh Cô Hồn còn được gọi là Miếu Âm Linh minh chứng dấu ấn lịch sử của những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Ngôn truyền qua các thế hệ bô lão thì trong các trận chiến chống quân Pháp tại cửa biển Đà Nẵng vào các năm 1858, 1859, 1862, quân lính triều đình của hai đồn Nam Ô và Trấn biển Cu Đê cùng dân binh địa phương tử trận rất nhiều, nên triều đình vua Tự Đức sau đó đã sắc dụ cho các dân xã lập âm linh để tưởng nhớ tử sĩ trận vong.
< Lễ hội cầu ngư ở Nam Ô.
Dulichgo
Miếu Âm Linh của làng theo đó được tôn tạo. Tại Miếu Âm Linh có khá nhiều những dòng chữ đầy bi hùng như: Sa trường điếu cổ (Thương xót người xưa chết trên sa trường), Thiên thu hiển hách, Giai di tứ hải anh hùng, Trung quân hề ái quốc... được ghi từ thời Tự Đức và Thành Thái.
Nhiều năm nay, ông Đặng Dùng liên tục đi khảo cứu, sưu tầm, viết lại thật nhiều những câu chuyện dân gian, những di tích để mong lưu giữ tài sản quý giá bao đời của cha ông để lại. Bởi theo ông, Nam Ô là vùng đất còn lưu giữ những giá trị văn hóa, minh chứng cho sự tiếp biến giữa hai nền văn hóa Chăm - Việt.

Dulichgo
Trao đổi thêm, ông Trương Công Hiếu, Trưởng phòng Văn hóa-Thông tin quận Liên Chiểu cho biết, vì nằm trong vùng giải tỏa nên chủ đầu tư ban đầu có ý định di dời quần thể này về khu đất cuối đường Nguyễn Tất Thành, nhưng người dân muốn giữ nguyên hiện trạng. Do đó, sau nhiều lần họp bàn, lãnh đạo quận và chủ đầu tư dự án đồng ý kiến nghị của người dân. “Còn giữ gìn và phát huy di tích cũng như thực hành tín ngưỡng của người dân trong thời gian tới, chúng tôi cũng đang chờ bố trí đền bù rồi mới tiến hành trùng tu và tìm ra phương án tốt nhất”, ông Hiếu nói.
Theo Hà Thu (Báo Đà Nẵng)
Du lịch, GO!
Mặn mòi nước mắm Nam Ô
Gỏi cá Nam Ô - Đà Nẵng
Khám phá rạn Nam Ô hoang sơ
Tham
quan làng chài Nam Ô ở Đà Nẵng

0 nhận xét: